icon-zalo2
  • Sunday, 05/05/2024 03:32 PM

Bản án số: 195/2019/DS-PT Ngày: 20/3/2019 về Tranh chấp hợp đồng đặt cọc tại Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh

30/08/2019 - 11:33 PM - 1.773 lượt xem
Trong các ngày 19/3/2019 và 20/3/2019 tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 620/2018/TLST-DS ngày 05 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.

Do bản án số 535/2018/DS-ST ngày 22/10/2018 của Toà án nhân dân Quận A bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 272/2019/QĐ-PT ngày 22/01/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 894/2019/QĐ-PT ngày 22/02/2019 giữa:

Nguyên đơn:
1.Ông Triệu Tấn B, sinh năm 1968 (Vắng mặt)

2. Bà Trần Mai C, sinh năm 1968 (Có mặt) Địa chỉ: phường D, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền:

1.Ông Đoàn Hữu E, sinh năm 1991 (Vắng mặt) 2.Ông Đinh Văn G, sinh năm 1993 (Có mặt)
Địa chỉ: phường D, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị đơn: Bà Phan Thị Tường H, sinh năm 1965 (Có mặt) Địa chỉ: phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.


Bị đơn: Bà Phan Thị Tường H, sinh năm 1965 (Có mặt) Địa chỉ: phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1.Ông Phạm Thanh K, sinh năm 1994 (Có mặt) Địa chỉ: phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Công ty L (Vắng mặt)
Địa Chỉ: Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật của Công ty L: Ông Chiu I – O – Tổng giám đốc. Địa chỉ: Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người Làm Chứng:
Bà Phạm Thanh P, sinh năm 1992 (Có mặt)
Địa chỉ: phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, các bản tự khai, biên bản hòa giải các tài liệu trong hồ sơ vụ án nguyên đơn Trần Mai C ông Triệu Tấn B ông Đinh Văn G xác định yêu cầu khởi kiện như sau:
Cuối năm 2016 ông Triệu Tấn B và bà Trần Mai C có nhu cầu mua nhà để ở. Qua trao đổi với con gái Phan Thị Tường H ông B và bà C biết được H đang có nhu cầu chuyển nhượng lại Hợp đồng mua bán căn hộ L8.02 thuộc dự án căn hộ Q, đường R, phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh với diện tích 108m2 của H đã với chủ đầu Công ty L vào ngày 16/01/2015.

Ngày 14/12/2016 ông B và bà H đã Thỏa thuận đặt cọc với nội dung bên nhận đặt cọc là bà Phan Thị Tường H (Bên A) bên đặt cọc ông Triệu Tấn B, bà Trần Mai C (Bên B). Theo đó hai bên thống nhất nội dung đặt cọc bên B đồng ý đặt cọc cho bên A số tiền 100.000.000 (một trăm triệu) đồng để nhận chuyển nhượng lại Hợp đồng mua bán căn hộ L8.02 thuộc dự án căn hộ Q với diện tích 108m2 với giá chuyển nhượng 3.610.000.000 (ba tỷ sáu trăm mười triệu) đồng. Số tiền ông B, C sẽ thanh toán cho H 2.908.000.000 (hai tỷ chín trăm lẻ tám triệu) đồng, số tiền còn lại 702.000.000 (bảy trăm lẻ hai triệu) đồng H cho biết ông B và bà C sẽ thanh toán tiếp cho chủ đầuchia làm 5 đợt, mỗi đợt cách nhau 03 tháng.

Theo thỏa thuận đặt cọc khoảng 20 giờ ngày 14/12/2016 tại nhà H ông B và bà C đã trao cho H số tiền 100.000.000 (một trăm triệu) đồng. Cũng theo thỏa thuận đặt cọc, hai bên thống nhất ngày 21/12/2016 sẽ thực hiện việc chuyển nhượng hợp đồng mua bán căn hộ tại phòng công chứng. H nghĩa vụ chuẩn bị tất cả các giấy tờ cần thiết liên quan đến việc chuyển nhượng Hợp đồng mua bán căn 
hộ để thực hiện Hợp đồng làm thủ tục công chứng vào ngày 21/12/2016, ông B C nghĩa vụ thanh toán số tiền 2.000.000.000 (hai tỷ) đồng.

Theo thỏa thuận đặt cọc, ngày hai bên ra phòng công chứng để thực hiện việc chuyển nhượng ngày 21/12/2017. Kể từ ngày hai bên thỏa thuận cho đến sáng ngày 21/12/2017, ông B và bà C không nhận được bất kỳ phản hồi nào về việc dời lại ngày tiến hành thủ tục chuyển nhượng tại phòng công chứng. Để thực hiện đúng theo các điều khoản thỏa thuận đặt cọc, vào lúc 09 giờ 00 phút ngày 21/12/2016 ông B và bà C đã chủ động nhắn tin cho H yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng. Sau đó vào lúc 14 giờ 15 phút ông B lại tiếp tục nhắn tin cho H với nội dung để tiện đi lại cho H thì vào lúc 15 giờ 30 phút ngày 21/12/2016 sẽ tiến hành Hợp đồng chuyển nhượng Hợp đồng mua bán căn hộ L8.02 thuộc dự án căn hộ Q tại Phòng công chứng S tại địa chỉ phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đúng 15 giờ 30 phút ngày 21/12/2016 ông B và bà C đã đến phòng Công chứng S chờ H đến 17 giờ nhưng H không đến như thỏa thuận đặt cọc. Sau đó ông B và bà C nhận được tin nhắn của con H là Kvới nội dung chưa có xác nhận của chủ đầu cho phép chuyển nhượng nên chưa Hợp đồng công chứng được. Do H không thực hiện đúng như thỏa thuận hai bên đã ký, ngay trong ngày 21/12/2016 ông B và bà C đã gửi cho H văn bản thông báo về việc bà đã vi phạm thỏa thuận đặt cọc đã ký ngày 14/12/2016 yêu cầu H phải thực hiện đúng thỏa thuận đặt cọc đã ký. ông B và bà C đã nhiều lần nhắc nhở việc H đã vi phạm thỏa thuận yêu cầu H trả lại số tiền 100.000.000 (một trăm triệu) đồng đã nhận của ông B C nhưng H không thiện chí giải quyết.

Ngày 30/12/2016 ông B đã trực tiếp đến nhà H thông báo với H về việc đã vi phạm thỏa thuận đặt cọc và ông B, bà C không muốn tiếp tục thực hiện giao dịch đồng thời yêu cầu H trả lại cho ông B và bà C số tiền 100.000.000 đồng nhưng H không đồng ý trả lại số tiền đã nhận.

Để bảo vệ quyền lợi của mình ông B và bà C khởi kiện yêu cầu bà H trả lại số tiền 100.000.000 đồng mà H đã nhận đồng thời yêu cầu bồi thường thêm một khoản tiền bằng số tiền đã nhận đặt cọc, cụ thể bên A phải bồi thường cho bên B số tiền 100.000.000 đồng.

Các bản tự khai, biên bản hòa giải các tài liệu trong hồ vụ án bị đơn Phan Thị Tường H trình bày như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 13/12/2016, ông B và bà C đến chung nơi sinh sống gặp ông B C. Thấy người lạ nên hỏi thì ông B
trả lời muốn mua nhà tại đây. Do tại thời điểm đó bà cũng có nhu cầu bán nhà nên trao đổi với ông B, C về việc bán căn hộ của mình với mức giá 3.650.000.000 (ba tỷ sáu trăm năm mươi triệu) đồng. Ngày 14/12/2016 H dẫn ông B, C lên xem căn hộ, sau đó hai bên đưa đến thống nhất giá chuyển nhượng 3.610.000.000 (ba tỷ sáu trăm mười triệu) đồng. Sau khi thống nhất được mức giá hai bên làm thỏa thuận đặt cọc.
 
Với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không đồng ý sau khi thỏa thuận đặt cọc, ông B và bà C dựa vào mục 2 phần ghi chú trong thỏa thuận đặt cọc nói để đi về, hẹn với con trai Phạm Thanh K đi lên chủ đầu để trực tiếp hỏi hợp đồng mua bán của bà có được phép chuyển nhượng hay không rồi mới đặt cọc. Sau đó ông B yêu cầu cho xem Hợp đồng mua bán nhà giữa với chủ đầu và bà đồng ý cho ông B xem. Thỏa thuận đặt cọc này cho rằng không nhận ký bất kỳ văn bản, biên nhận việc nhận tiền 100.000.000 đồng của ông B và bà C. Thời gian thanh toán tiền chia làm 3 đợt do ông B C đưa ra. ông B C biết thanh toán trễ kỳ 8 với chủ đầu nên đồng ý với phần thanh toán còn lại giữa chủ đầu tư. Tới 21 giờ 30 ngày 14/12/2016 nói với Kcon trai nhắn tin cho ông B xin điều chỉnh phần bên B sẽ thanh toán số tiền còn lại với chủ đầu tư, ông B đồng ý hẹn con trai sáng hôm sau gặp ông B để điều chỉnh lại thỏa thuận mà hai bên đã ký.

Khoảng 14 giờ ngày 15/12/2016, C có hẹn với con trai K gặp nhau tại văn phòng chủ đầu tư tòa nhà V đường X, Quận N. Tại đây, chủ đầu tư đã trực tiếp trả lời rằng căn hộ của được phép chuyển nhượng chủ đầu còn gửi cho C mẫu Đơn đề nghị chuyển nhượng hợp đồng mua bán bất động sản. C đem về photo thêm 1 bản, điền đầy đủ thông tin nhờ con trai đem lên nộp chủ đầu tư. ông B và bà C còn gửi cho 01 bản tên sẵn đề phòng trường hợp điền sai thông tin. Ngày 16/12/2016 con trai đem hồ lên nộp tại văn phòng chủ đầu tư. Ngày 19/12/2016 ông B, C nhắn tin hỏi con trai về việc nộp hồ sơ xin chuyển nhượng con trai trả lời lại ngày 21/12/2016 chủ đầu sẽ trả lời. Vào lúc lúc 09 giờ 31 phút sáng ngày 21/12/2016 C nhắn cho đề nghị tiếp tục thực hiện hợp đồng, con trai liên hệ chủ đầu nhưng chủ đầu trả lời rằng vẫn chưa giấy chuyển nhượng nên con trai nhắn tin cho ông B biết sự việc này vào lúc 13 giờ 44 phút. Sau đó lúc 14 giờ 15 phút ông B vẫn nhắn tin cho hẹn 15 giờ 30 lên phòng công chứng S để công chứng hợp đồng mua bán nhưng nhắn tin trả lời lại ngay sau đó lúc 14 giờ 24 rằng “không giấy xác nhận đồng ý của chủ đầu tư thì không thể công chứng được, tôi đã đến phòng công chứng Quận Y hỏi rồi”.

 
Vào lúc 20 giờ 57 phút ngày 21/12/2016 C nhắn tin cho hẹn đến 21 giờ 30 nếu không liên hệ với ông B để trả tiền đặt cọc thì sẽ khởi kiện lên Tòa án Quận A.

Ngày 22/12/2016 bà có nhận được thư từ chuyển phát nhanh từ ông B và bà C “văn bản thông báo về việc vi phạm thỏa thuận đặt cọc” được công chứng viên Nguyễn Xuân A1 xác thực. Trong nội dung thư có ghi rõ rằng hai ông bà đã chờ đến 17 giờ cùng ngày không thấy đến phòng công chứng S nên gửi cho thư này, chữ của ông B, bà C dấu bưu điện cùng một ngày 21/12/2016. nghi ngờ văn bản này đã được soạn sẵn trước khi ông B gửi tin nhắn hẹn bà. Vào cùng ngày 22/12/2016 nhận được email từ chủ đầu thông báo về việc chậm trễ giấy xác nhận chuyển nhượng và đã chuyển tiếp email cho ông B C được biết nhưng không nhận được sự phản hồi.

Ngày 30/12/2016 chủ đầu gửi tiếp 01 email xin lỗi về việc chậm giấy chuyển nhượng đồng thời xác nhận căn hộ L8.02 được chuyển nhượng với điều kiện phải thanh toán đợt 8 chuyển email này cho C vào cùng ngày đồng thời gửi thư chuyển phát nhanh vào ngày hôm sau cho ông B và C. Sáng ngày 30/12/2016 ông B nhắn tin cho bà và con trai bà, đề nghị gặp để trao đổi về căn hộ L8.02 lúc 20 giờ 30 phút. Tối ngày 30, ông B đến cùng người lại tôi yêu cầu chỉ tiếp mình ông B, ông B đưa thỏa thuận đặt cọc ra yêu cầu tôi tên là đã nhận tiền đặt cọc 100.000.000 đồng không đồng ý, bà nói rằng thỏa thuận đặt cọc này ai cũng đọc, hiểu tên nênkhông tên nhận tiềnhết.

Ngày 03/01/2017 chủ đầu gửi email thông báo về việc cả công ty đi du lịch từ ngày 04/01 đến ngày 07/01/2017 sẽ giải quyết vấn đề chuyển nhượng trong tuần tiếp the Trong các ngày 19/3/2019 và 20/3/2019 tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 620/2018/TLST-DS ngày 05 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.

Do bản án số 535/2018/DS-ST ngày 22/10/2018 của Toà án nhân dân Quận A bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 272/2019/QĐ-PT ngày 22/01/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 894/2019/QĐ-PT ngày 22/02/2019 giữa:
Nguyên đơn: 1.Ông Triệu Tấn B, sinh năm 1968 (Vắng mặt)
2. Bà Trần Mai C, sinh năm 1968 (Có mặt) Địa chỉ: phường D, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền:
1.Ông Đoàn Hữu E, sinh năm 1991 (Vắng mặt) 2.Ông Đinh Văn G, sinh năm 1993 (Có mặt)
Địa chỉ: phường D, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị đơn: Bà Phan Thị Tường H, sinh năm 1965 (Có mặt) Địa chỉ: phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1.Ông Phạm Thanh K, sinh năm 1994 (Có mặt) Địa chỉ: phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Công ty L (Vắng mặt)
Địa Chỉ: Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật của Công ty L: Ông Chiu I – O – Tổng giám đốc. Địa chỉ: Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người Làm Chứng:
Bà Phạm Thanh P, sinh năm 1992 (Có mặt)
Địa chỉ: phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, các bản tự khai, biên bản hòa giải các tài liệu trong hồ sơ vụ án nguyên đơn Trần Mai C ông Triệu Tấn B ông Đinh Văn G xác định yêu cầu khởi kiện như sau:

Cuối năm 2016 ông Triệu Tấn B và bà Trần Mai C có nhu cầu mua nhà để ở. Qua trao đổi với con gái Phan Thị Tường H ông B và bà C biết được H đang có nhu cầu chuyển nhượng lại Hợp đồng mua bán căn hộ L8.02 thuộc dự án căn hộ Q, đường R, phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh với diện tích 108m2 của H đã với chủ đầu Công ty L vào ngày 16/01/2015.

Ngày 14/12/2016 ông B và bà H đã Thỏa thuận đặt cọc với nội dung bên nhận đặt cọc là bà Phan Thị Tường H (Bên A) bên đặt cọc ông Triệu Tấn B, bà Trần Mai C (Bên B). Theo đó hai bên thống nhất nội dung đặt cọc bên B đồng ý đặt cọc cho bên A số tiền 100.000.000 (một trăm triệu) đồng để nhận chuyển nhượng lại Hợp đồng mua bán căn hộ L8.02 thuộc dự án căn hộ Q với diện tích 108m2 với giá chuyển nhượng 3.610.000.000 (ba tỷ sáu trăm mười triệu) đồng. Số tiền ông B, C sẽ thanh toán cho H 2.908.000.000 (hai tỷ chín trăm lẻ tám triệu) đồng, số tiền còn lại 702.000.000 (bảy trăm lẻ hai triệu) đồng H cho biết ông B và bà C sẽ thanh toán tiếp cho chủ đầuchia làm 5 đợt, mỗi đợt cách nhau 03 tháng.

Theo thỏa thuận đặt cọc khoảng 20 giờ ngày 14/12/2016 tại nhà H ông B và bà C đã trao cho H số tiền 100.000.000 (một trăm triệu) đồng. Cũng theo thỏa thuận đặt cọc, hai bên thống nhất ngày 21/12/2016 sẽ thực hiện việc chuyển nhượng hợp đồng mua bán căn hộ tại phòng công chứng. H nghĩa vụ chuẩn bị tất cả các giấy tờ cần thiết liên quan đến việc chuyển nhượng Hợp đồng mua bán căn 
hộ để thực hiện Hợp đồng làm thủ tục công chứng vào ngày 21/12/2016, ông B C nghĩa vụ thanh toán số tiền 2.000.000.000 (hai tỷ) đồng.

Theo thỏa thuận đặt cọc, ngày hai bên ra phòng công chứng để thực hiện việc chuyển nhượng ngày 21/12/2017. Kể từ ngày hai bên thỏa thuận cho đến sáng ngày 21/12/2017, ông B và bà C không nhận được bất kỳ phản hồi nào về việc dời lại ngày tiến hành thủ tục chuyển nhượng tại phòng công chứng. Để thực hiện đúng theo các điều khoản thỏa thuận đặt cọc, vào lúc 09 giờ 00 phút ngày 21/12/2016 ông B và bà C đã chủ động nhắn tin cho H yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng. Sau đó vào lúc 14 giờ 15 phút ông B lại tiếp tục nhắn tin cho H với nội dung để tiện đi lại cho H thì vào lúc 15 giờ 30 phút ngày 21/12/2016 sẽ tiến hành Hợp đồng chuyển nhượng Hợp đồng mua bán căn hộ L8.02 thuộc dự án căn hộ Q tại Phòng công chứng S tại địa chỉ phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đúng 15 giờ 30 phút ngày 21/12/2016 ông B và bà C đã đến phòng Công chứng S chờ H đến 17 giờ nhưng H không đến như thỏa thuận đặt cọc. Sau đó ông B và bà C nhận được tin nhắn của con H là Kvới nội dung chưa có xác nhận của chủ đầu cho phép chuyển nhượng nên chưa Hợp đồng công chứng được. Do H không thực hiện đúng như thỏa thuận hai bên đã ký, ngay trong ngày 21/12/2016 ông B và bà C đã gửi cho H văn bản thông báo về việc bà đã vi phạm thỏa thuận đặt cọc đã ký ngày 14/12/2016 yêu cầu H phải thực hiện đúng thỏa thuận đặt cọc đã ký. ông B và bà C đã nhiều lần nhắc nhở việc H đã vi phạm thỏa thuận yêu cầu H trả lại số tiền 100.000.000 (một trăm triệu) đồng đã nhận của ông B C nhưng H không thiện chí giải quyết.

Ngày 30/12/2016 ông B đã trực tiếp đến nhà H thông báo với H về việc đã vi phạm thỏa thuận đặt cọc và ông B, bà C không muốn tiếp tục thực hiện giao dịch đồng thời yêu cầu H trả lại cho ông B và bà C số tiền 100.000.000 đồng nhưng H không đồng ý trả lại số tiền đã nhận.
Để bảo vệ quyền lợi của mình ông B và bà C khởi kiện yêu cầu bà H trả lại số tiền 100.000.000 đồng mà H đã nhận đồng thời yêu cầu bồi thường thêm một khoản tiền bằng số tiền đã nhận đặt cọc, cụ thể bên A phải bồi thường cho bên B số tiền 100.000.000 đồng.

Các bản tự khai, biên bản hòa giải các tài liệu trong hồ vụ án bị đơn Phan Thị Tường H trình bày như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 13/12/2016, ông B và bà C đến chung nơi sinh sống gặp ông B C. Thấy người lạ nên hỏi thì ông B
trả lời muốn mua nhà tại đây. Do tại thời điểm đó bà cũng có nhu cầu bán nhà nên trao đổi với ông B, C về việc bán căn hộ của mình với mức giá 3.650.000.000 (ba tỷ sáu trăm năm mươi triệu) đồng. Ngày 14/12/2016 H dẫn ông B, C lên xem căn hộ, sau đó hai bên đưa đến thống nhất giá chuyển nhượng 3.610.000.000 (ba tỷ sáu trăm mười triệu) đồng. Sau khi thống nhất được mức giá hai bên làm thỏa thuận đặt cọc.
 
Với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không đồng ý sau khi thỏa thuận đặt cọc, ông B và bà C dựa vào mục 2 phần ghi chú trong thỏa thuận đặt cọc nói để đi về, hẹn với con trai Phạm Thanh K đi lên chủ đầu để trực tiếp hỏi hợp đồng mua bán của bà có được phép chuyển nhượng hay không rồi mới đặt cọc. Sau đó ông B yêu cầu cho xem Hợp đồng mua bán nhà giữa với chủ đầu và bà đồng ý cho ông B xem. Thỏa thuận đặt cọc này cho rằng không nhận ký bất kỳ văn bản, biên nhận việc nhận tiền 100.000.000 đồng của ông B và bà C. Thời gian thanh toán tiền chia làm 3 đợt do ông B C đưa ra. ông B C biết thanh toán trễ kỳ 8 với chủ đầu nên đồng ý với phần thanh toán còn lại giữa chủ đầu tư. Tới 21 giờ 30 ngày 14/12/2016 nói với Kcon trai nhắn tin cho ông B xin điều chỉnh phần bên B sẽ thanh toán số tiền còn lại với chủ đầu tư, ông B đồng ý hẹn con trai sáng hôm sau gặp ông B để điều chỉnh lại thỏa thuận mà hai bên đã ký.

Khoảng 14 giờ ngày 15/12/2016, C có hẹn với con trai K gặp nhau tại văn phòng chủ đầu tư tòa nhà V đường X, Quận N. Tại đây, chủ đầu tư đã trực tiếp trả lời rằng căn hộ của được phép chuyển nhượng chủ đầu còn gửi cho C mẫu Đơn đề nghị chuyển nhượng hợp đồng mua bán bất động sản. C đem về photo thêm 1 bản, điền đầy đủ thông tin nhờ con trai đem lên nộp chủ đầu tư. ông B và bà C còn gửi cho 01 bản tên sẵn đề phòng trường hợp điền sai thông tin. Ngày 16/12/2016 con trai đem hồ lên nộp tại văn phòng chủ đầu tư. Ngày 19/12/2016 ông B, C nhắn tin hỏi con trai về việc nộp hồ sơ xin chuyển nhượng con trai trả lời lại ngày 21/12/2016 chủ đầu sẽ trả lời. Vào lúc lúc 09 giờ 31 phút sáng ngày 21/12/2016 C nhắn cho đề nghị tiếp tục thực hiện hợp đồng, con trai liên hệ chủ đầu nhưng chủ đầu trả lời rằng vẫn chưa giấy chuyển nhượng nên con trai nhắn tin cho ông B biết sự việc này vào lúc 13 giờ 44 phút. Sau đó lúc 14 giờ 15 phút ông B vẫn nhắn tin cho hẹn 15 giờ 30 lên phòng công chứng S để công chứng hợp đồng mua bán nhưng nhắn tin trả lời lại ngay sau đó lúc 14 giờ 24 rằng “không giấy xác nhận đồng ý của chủ đầu tư thì không thể công chứng được, tôi đã đến phòng công chứng Quận Y hỏi rồi”.

 
Vào lúc 20 giờ 57 phút ngày 21/12/2016 C nhắn tin cho hẹn đến 21 giờ 30 nếu không liên hệ với ông B để trả tiền đặt cọc thì sẽ khởi kiện lên Tòa án Quận A.

Ngày 22/12/2016 bà có nhận được thư từ chuyển phát nhanh từ ông B và bà C “văn bản thông báo về việc vi phạm thỏa thuận đặt cọc” được công chứng viên Nguyễn Xuân A1 xác thực. Trong nội dung thư có ghi rõ rằng hai ông bà đã chờ đến 17 giờ cùng ngày không thấy đến phòng công chứng S nên gửi cho thư này, chữ của ông B, bà C dấu bưu điện cùng một ngày 21/12/2016. nghi ngờ văn bản này đã được soạn sẵn trước khi ông B gửi tin nhắn hẹn bà. Vào cùng ngày 22/12/2016 nhận được email từ chủ đầu thông báo về việc chậm trễ giấy xác nhận chuyển nhượng và đã chuyển tiếp email cho ông B C được biết nhưng không nhận được sự phản hồi.

Ngày 30/12/2016 chủ đầu gửi tiếp 01 email xin lỗi về việc chậm giấy chuyển nhượng đồng thời xác nhận căn hộ L8.02 được chuyển nhượng với điều kiện phải thanh toán đợt 8 chuyển email này cho C vào cùng ngày đồng thời gửi thư chuyển phát nhanh vào ngày hôm sau cho ông B và C. Sáng ngày 30/12/2016 ông B nhắn tin cho bà và con trai bà, đề nghị gặp để trao đổi về căn hộ L8.02 lúc 20 giờ 30 phút. Tối ngày 30, ông B đến cùng người lại tôi yêu cầu chỉ tiếp mình ông B, ông B đưa thỏa thuận đặt cọc ra yêu cầu tôi tên là đã nhận tiền đặt cọc 100.000.000 đồng không đồng ý, bà nói rằng thỏa thuận đặt cọc này ai cũng đọc, hiểu tên nênkhông tên nhận tiềnhết.

Ngày 03/01/2017 chủ đầu gửi email thông báo về việc cả công ty đi du lịch từ ngày 0o. Con trai tiếp tục chuyển tiếp thư này tới C vào lúc 16 giờ 51 phút thông báo thời gian gia hạn cho Thỏa thuận đặt cọc đến hết này 16/01/2017 thay ngày 09/01/2017 đồng thời gửi thư chuyển phát nhanh cho ông B, C vào ngày 04/01/2017 nhưng không nhận được sự phản hồi nào. Nội dung thư nói rõ đến hết ngày 16/01/2017, nếu ông B C không tiến hành giao dịch thì xem như tự ý hủy thỏa thuận đặt cọc.

ông B và bà C yêu cầu bà trả lại tiền cọc bồi thường hợp đồng chỉ dựa trên chữ trên thỏa thuận đặt cọc là vô lý, không có cơ sở nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Các bản tự khai, biên bản hòa giải và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án ông Phạm Thanh K trình bày như sau:

Ngày 14/12/2016 ông B nhắn tin cho ông đến căn hộ của ông xem nhà. Sau khi ông B và bà C xem nhà, mẹ ông và ông B, C cùng nhau ngồi lại soạn thảo thỏa thuận đặt cọc, ông chỉ người hỗ trợ đánh máy soạn thảo văn bản. Việc gặp chủ đầu trao đổi thông tin giữa ông ông B và bà C giống như mẹ ông đã trình bày. Với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông không đồng ý vì ông không chứng kiến việc giao nhận tiền giữa các bên.

Bà Phạm Thanh P tại bản tự khai ngày 17/10/2018 trình bày: Vào ngày 14/12/2016 bà có ở nhà nhưng bà không chứng kiến và không biết việc giao dịch, mua, bán nhà của mẹ bà. Tại đơn yêu cầu được vắng mặt, bà P nêu vì lý do bận công việc nên bà không thể có mặt tại tòa, bà xin được vắng mặt trong tất cả các buổi làm việc, hòa giải, xét xử của tòa án các cấp.

Bản án sơ thẩm tuyên xử:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
khoản 1 Điều 147, Điều 228, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ vào Điều 124, Điều 137, Điều 358 Bộ luật Dân sự 2005; Căn cứ vào Điều 468 BLDS 2015;
Căn cứ Luật Phí và Lệ phí;
Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014. Xử:

  • Về hình thức: Xử vắng mặt Công ty L người làm chứng Phạm Thanh P.

  • Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

  1. Hủy Thỏa thuận đặt cọc ngày 14/12/2016 được kết giữa ông Triệu

Tấn B và bà Phan Thị Tường H do Hợp đồng hai bên xác lập bị vô hiệu.

  1. Đình chỉ đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn bồi thường số tiền phạt cọc 100.000.000 đồng theo thỏa thuận đặt cọc ngày 14/12/2016.

  2. Phan Thị Tường H nghĩa vụ phải trả lại cho ông Triệu Tấn B và bà Trần Mai C số tiền 100.000.000 đồng ngay sau khi bản án hiệu lực pháp luật.

  3. Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015, nếu không có sự thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

  1. Phan Thị Tường H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 5.000.000 (năm triệu) đồng. Hoàn lại cho ông Triệu Tấn B số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng theo biên lai thu số AA/2012/07478 ngày 14/02/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

  2. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014.

Đương sự mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tai phiên tòa quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05 tháng 11 năm 2018 bị đơn có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm 535/2018/DS-ST ngày 22/10/2018 của Tòa án nhân dân Quận

  1. Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại phiên tòa phúc thẩm,

Bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Bị đơn – bà Phan Thị Tường H trình bày, tôi kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm bản án nhận định thiếu khách quan, không chứng cứ thể hiện tôi đã nhận tiền cọc 100.000.000 đồng của phía nguyên đơn, trong hợp đồng đặt cọc không thể hiện tôi đã nhận tiền, sau khi hợp đồng đặt cọc nguyên đơn cũng không giao tiền cọc cho tôi như đã ký, do đó cấp thẩm buộc tôi phải giao trả cho nguyên đơn số tiền này không có cơ sở. Đề nghị Tòa sửa án thẩm, bác yêu cầu của nguyên đơn.

Nguyên đơn trình bày do sơ ý nên đã không làm giấy biên nhận đã giao nhận số tiền 100.000.000 đồng tuy nhiên qua quá trình thực hiện hợp đồng, qua các lần trao đổi giữa hai bên trong quá trình chuẩn bị ký hợp đồng mua bán tại công chứng 
đã thể hiện phía bà H nhận đủ tiền cọc do đó đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của nguyên đơn, y án sơ thẩm.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tham gia tố tụng đã tuân thủ quy định Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 trong quá trình thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa.
Về nội dung kháng cáo:
Hồ sơ vụ án thể hiện giữa hai bên đã tiến hành thỏa thuận và đi đến ký kết thỏa thuận đặt cọc mua bán căn hộ vào ngày 14/12/2016. Trong Điều 2 của thỏa thuận này có ghi phương thức thanh toán:
Đợt 1: Ngay khi ký hợp đồng bên B đặt cọc cho bên A số tiền 100.000.000 đồng.
Đợt 2: Ngày 21/12/2016 ngay sau khi hợp đồng công chứng bên B thanh toán cho bên A số tiền bên A đã nộp cho chủ đầu tương đương 2 tỷ đồng chẵn.
Vào ngày 21/12/2016 khi bên nguyên đơn gửi tin nhắn cho bị đơn nội dung đã đề nghị bà H sau khi nhận tiền cọc phải thực hiện nghĩa vụ xin giấy cho phép sang nhượng của chủ đầu tư và tiến hành ra công chứng ký hợp đồng mua bán nhưng bà H không phản đối nội dung này mà sau đó còn có nhiều lần lên chủ đầu tư để xin giấy phép chuyển nhượng. Qua các tình tiết về giao dịch giữa hai bên đã thể hiện bà Phan Thị Tường H có nhận số tiền cọc của nguyên đơn là 100.000.000 đồng, tuy nhiên do bà H con thiếu tiền thanh toán với chủ đầu tư nên không đủ điều kiện chuyển nhượng căn hộ theo thỏa thuận đặt cọc đã cam kết. Do đó bản án sơ thẩm quyết định là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị đơn giữ nguyên án sơ thẩm.

 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

  1. Thời hạn kháng cáo: Ngày 22/10/2018 Tòa án nhân dân Quận A xét xử và tuyên bản án dân sự sơ thẩm số án số 535/2018/DS-ST. Ngày 05 tháng 11 năm 2018 bà Phan Thị Tường H là bị đơn có đơn kháng cáo. Căn cứ Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, kháng cáo còn trong hạn luật định nên được xem xét.

  2. Nội dung kháng cáo:

-   Hội đồng xét xử xét thấy:
Phan Thị Tường H kháng cáo với nội dung cho rằng hai bên chưa sự giao nhận số tiền cọc 100.000.000 đồng nên không đồng ý trả số tiền này cho nguyên đơn như quyết định của bản án thẩm, Hội dồng xét xử xét thấy như sau:

Theo các tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án thể hiện ngày 14/12/2016 ông Triệu Tấn B Phan Thị Tường H với nhau thỏa thuận đặt cọc để tiến hành mua bán căn hộ. Đây Hợp đồng được kết giữa ông B và bà H, trong thỏa thuận có ghi rõ bên đặt cọc (bên B) là ông Triệu Tấn B và bà Trần Mai C bên nhận đặt cọc (bên A) Phan Thị Tường H. Theo đó bên B đồng ý đặt cọc cho bên A số tiền được quy định tại Điều 2 của thỏa thuận đặt cọc để nhận chuyển nhượng lại Hợp đồng đã ký ngày 16/01/2015 giữa H Công ty L, chuyển nhượng một căn hộ có hiệu L8.02 diện tích 108m2 thuộc dự án căn hộ Q.

Theo lời khai của H tại các bản tự khai, biên bản hòa giải tại phiên tòa sở dĩ các bên không thực hiện được việc công chứng chuyển nhượng chưa giấy xác nhận của chủ đầu tư về việc đồng ý cho chuyển nhượng căn hộ nêu trên. H xác nhận, trình bày với ông B và bà C về việc bà có vi phạm nghĩa vụ thanh toán kỳ thứ 8 với chủ đầu tư. Theo Hợp đồng mua bán số KB/HĐMB-008 ngày 16/01/2015 được giữa với Công ty L thì kỳ thứ 8 phải thanh toán số tiền 158.959.676 đồng cho Công ty L vào ngày 07/10/2016. Căn cứ vào điểm b, khoản

  1. Điều 10 về chuyển giao quyền nghĩa vụ của Hợp đồng mua bán số KB/HĐMB-008 ngày 16/01/2015 thì bên mua chỉ được chuyển nhượng Hợp đồng cho bên thứ 3 khi bên mua đã hoàn thành việc thanh toán các nghĩa vụ đến hạn liên quan đến Căn hộ đã mua cho bên bán (Công ty L) theo thỏa thuận trong hợp đồng. Như vậy trường hợp này H không quyền chuyển nhượng lại hợp đồng mua bán đã với chủ đầu tư. Theo quy định tại Điều 411 Bộ luật dân sự 2005 trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị hiệu. Cấp thẩm xác đinh hợp đồng này hiệu là có cơ sở.

Việc bà Phan Thị Tường H cho rằng không có sự giao nhận tiền cọc 100.000.000 đồng, Hội đồng xét xử xét thấy:

Trong suốt quá trình từ khi hai bên thỏa thuận đặt cọc ngày 14/12/2016 đến khi xảy ra tranh chấp, giữa hai bên có quá trình trao đối qua lại nhiều lần qua điện thoại email, tin nhắn…, nguyên đơn đã nhiều lần xác định bị đơn đã nhận tiền cọc yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng đặt cọc nhưng phía bị đơn không bất cứ phản hồi nào với ông B và bà C về việc chưa nhận được số tiền đặt cọc. Thay vào đó, H luôn cố liên lạc với chủ đầu để được cấp vào bản cho phép chuyển nhượng căn hộ của cho ông B C cho rằng việc cố gắng liên hệ với chủ đầu tư là để chứng minh mình không vi phạm thỏa thuận hai bên đã ký kết. Khi ông B và bà C thông báo cho bà về thời gian địa điểm để tiến hành công chứng, trường hợp chưa nhận cọc nhưng không yêu cầu ông B và bà C giao tiền cọc như các bên thỏa thuận rồi mới tiến hành công chứng mà thay vào đó trả lời cho ông B và bà C việc không tiến hành công chứng được do chưa có sự xác nhận của chủ đầu tư. Mặt khác, khi H không tới phòng công chứng, ông B và bà C văn bản thông báo cho bà về việc H phạm thỏa thuận đặt cọc trong văn bản thông báo ghi nội dung “Vợ chồng chúng tôi đã thanh toán tiền đặt cọc cho vào ngày 14/12/2016 với số tiền 100.000.000 đồng” H xác nhận nhận được văn bản này vào ngày hôm sau, thay phản hồi cho ông B C về việc không việc giao nhận số tiền 100.000.000 đồng như trong văn bản gửi đến thì H lại gửi mail cho ông B C bản mail của chủ đầu về việc do sếp tổng đang đi công tác nước ngoài nên chưa có văn bản cho phép chuyển nhượng. Tiếp theo đó, ngày 22/12/2016 C gửi mail cho Klà con trai H với nội dung “Bên con đã vi phạm thỏa thuận đặt cọc và đã không ra công chứng để thực hiện hợp đồng mua bán như ngày đã ấn định theo thỏa thuận ngày 21/12/2016. theo ý của mẹ con tất cả đều theo thỏa thuận mà thực hiện vì vậy thỏa thuận đã bị vi phạm chú sẽ khởi kiện đúng pháp luật Việt Nam. Con nên khuyên mẹ hoàn trả lại 100.000.000 đồng đặt cọc cho cô chú để thanh thỏa thuận”, sau khi nhận được mail, Kcó đọc cho H nghe, không ý kiến cũng như phản hồi đối với nội dung này. Ngày 30/12/2016 phía công ty Kim Bảo gửi mail cho Kxin lỗi về sự chậm trễ Kcó thông báo cho H, H đã yêu cầu Kchuyển mail lại cho C kèm thư chuyển phát nhanh nhưng với yêu cầu của ông B và bà C đòi lại tiền cọc thì H không trả lời cho ông B và C.

Tại Điều 2 của thỏa thuận đặt cọc có ghi phương thức thanh toán:
Đợt 1: Ngay khi ký hợp đồng bên B đặt cọc cho bên A số tiền 100.000.000 đồng.
Đợt 2 : Ngày 21/12/2016 ngày sau khi hợp đồng công chứng bên B thanh toán cho bên A số tiền bên A đã nộp cho chủ đầu tương đương 2 tỷ đồng chẵn.
Quá trình giao dịch mua bán giữa hai bên thể hiện các bên đã tiến hành đến giai đoạn cùng ra ký hợp đồng mua bán tại phòng công chứng phía bên bán là bà H không yêu cầu gì về việc thanh toán đợt 1, điều này cũng thể hiện việc thanh toán đợt 1 đã được thực hiện.
Với những nhận định trên, Hội đồng xét xử cho rằng sự việc ông B và bà C đặt cọc cho H số tiền 100.000.000 đồng thật, cấp thẩm xác định thỏa thuận đặt cọc giữa hai bên hiệu, các bên giao trả cho nhau những gì đã nhận là có cơ sở do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án thẩm.
Ngoài ra Hội đồng xét xử xét thấy điều chỉnh lại phần quy định của lãi suất khi chậm thi hành án tại phần quyết định của bản án sơ thẩm cho phù hợp với pháp luật hiện hành.

  1. Về án phí :

    • Án phí sơ thẩm : Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

    • Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;
 

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào Khoản 1, Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Tuyên xử:

  1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án thẩm.

  2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Hủy Thỏa thuận đặt cọc ngày 14/12/2016 được kết giữa ông Triệu Tấn B và bà Phan Thị Tường H do Hợp đồng hai bên xác lập bị vô hiệu.
Đình chỉ đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn bồi thường số tiền phạt cọc 100.000.000 đồng theo thỏa thuận đặt cọc ngày 14/12/2016.

Bà Phan Thị Tường H có nghĩa vụ phải trả lại cho ông Triệu Tấn B và bà Trần Mai C số tiền 100.000.000 đồng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của ông Triệu Tấn B và bà Trần Mai C cho đến khi thi hành án xong thì Phan Thị Tường H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật quy định khác.

  1. Án phí:

  • Án phí dân sự sơ thẩm:

Phan Thị Tường H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 5.000.000 (Năm triệu) đồng. Hoàn lại cho ông Triệu Tấn B số tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng theo biên lai thu số AA/2012/07478 ngày 14/02/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

  • Án phí dân sự phúc thẩm:

Phan Thị Tường H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0026218 ngày 05/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận A. H đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

 


CÔNG TY LUẬT PHÁP ĐỊNH
Quý khách liên hệ với chúng tôi
CÔNG TY LUẬT PHÁP ĐỊNH
454 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 5, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh (T7 - Tòa nhà Lộc Lê)
0909 666 275 - 094 44 88 001
0909 666 275 (Luật sư Cường)
Đăng ký luật sư tư vấn Đăng ký ngay

Các tin tức khác

CHÍNH SÁCH VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHÍNH SÁCH VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ

Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý dưới các hình thức: tư vấn pháp luật; tham gia tố tụng; đại diện ngoài tố tụng... Luật Pháp Định xin nêu ra một số quy định về trợ giúp pháp lý miễn phí (Theo Luật trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành) như sau: I - NGƯỜI ĐƯỢC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ: 1. Người thuộc hộ nghèo. 2. Người có công với cách mạng bao gồm: - Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945; - Người ...

CÔNG TY LUẬT PHÁP ĐỊNH

Địa chỉ: 454 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 5, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh (T7 - Tòa nhà Lộc Lê)

Điện thoại/ Hotline: 0909 666 275 - 094 44 88 001

Copyright © luatphapdinh.vn